Đặc điểm cận lâm sàng của bệnh sán lá gan lớn gây ra
- 11/11/2020 - 03:11:03 PM
- 5834
Trong đó chỉ số bạch cầu ở giai đoạn cấp bạch cầu luôn trên 10.000/mm3, bạch cầu ái toan hầu như trên 5% và nhiều trường hợp có thể tới 80%. Hồng cầu thường có biểu hiện thiếu máu nhẹ, chỉ số hemoglobin và hematocrite giảm ghi nhận qua một số ca nặng. Tốc độ máu lắng tăng trong giai đoạn cấp và trở về bình thường ở giai đoạn âm ỉ, tăng nhẹ hoặc bình thường trong giai đoạn mạn tính.
Xét nghiệm chức năng gan:
Các chỉ số đó thay đổi theo giai đoạn cấp tính và mạn tính. Giai đoạn cấp tính, một số chỉ số men gan tăng như SGOT, SGPT, GGT, Globulin và Bilirubin huyết thanh, một số trường hợp khác cho kết quả bình thường, ngoại trừ alkaline phosphatase và điện di huyết thanh có có α2 và γ-globulin tăng. Trong giai đoạn tắc nghẽn: vàng da được biểu hiện về sau, bilirubin huyết thanh ở mức 2-8.6 mmol/l và có xuất hiện bilirubin niệu. Giữa những cơn đau có thể bilirubin huyết thanh bình thường, SGOT,SGPT, alkaline phosphatase và globulin huyết thanh thường tăng, trong khi đó albumin lại giảm.
Xét nghiệm phân tìm trứng sán:
Phát hiện trứng trong phân là "chuẩn vàng" cho chuẩn đoán. Tuy nhiên, tỉ lệ phát hiện dương tính ở trong phân hoặc trong dịch hút từ tá tràng chiếm tỉ lệ rất nhỏ, dù đã thực hiện nhiều mẫu phân liên tiếp (< 5%). Mặt khác, sán đẻ trứng và đào thải thất thường chưa biết rõ cơ chế, do đó trứng có thể được tìm thấy rất ít hoặc đôi khi không thấy trong một số mẫu phân theo các thời điểm khác nhau. Sán ký sinh lạc chỗ sẽ không bao giờ có trứng ở trong phân.

Hút dịch mật tá tràng tìm trứng sán:
Thủ thuật này tương đối phức tạp và thường được áp dụng trong nghiên cứu hơn là thực hành lâm sàng điều trị thường quy cho bệnh nhân. Bằng cách đưa ống thông chuyên dụng vào đoạn D2 của tá tràng sau đó hút lấy dịch mật, xét nghiệm tìm trứng sán có hay không. Tỷ lệ phát hiện được trứng sẽ có độ đặc hiệu cao, nhưng thường tỉ lệ phát hiện không cao vì hạn chế như việc tìm trứng sán trong phân.
Xét nghiệm miễn dịch:
Kháng thể sẽ xuất hiện ở trong máu 2 tuần sau khi sán xâm nhập, sự tồn tại kháng thể trong máu là cơ sở của cơ chế phản ứng miễn dịch giúp cho việc chẩn đoán bệnh. Các kháng thể trong giai đoạn này chủ yếu là IgG nên có thể phát hiện bằng xét nghiệm huyết thanh chẩn đoán, kỹ thuật thường dùng là Elisa.
Kháng thể có thể tồn tại trong máu lâu dài sau khi điều trị, có trường hợp vẫn tồn tại kháng thể tới 1 năm sau điều trị. Vì vậy, xét nghiệm tìm kháng thể sán trong huyết thanh bệnh nhân sớm đã có giá trị chẩn đoán, nhưng việc đánh giá kết quả điều trị phải dựa vào các triệu chứng lâm sàng và sự cải thiện trong hình ảnh siêu âm là quan trọng hơn.
Ngoài ra, nghiên cứu còn cho thấy khi nhiễm sán Fasciola spp thì thành phần IgG, IgM, IgE huyết thanh luôn tăng, kháng thể đặc hiệu IgE tăng tới 48-60% số ca, mức cao của IgE sẽ tùy thuộc vào cường độ nhiễm, tuổi bệnh nhân, đáp ứng lâm sàng và mức độ bạch cầu ái toan tăng.
Chẩn đoán hình ảnh:
Siêu âm bụng tổng quát, chụp cắt lớp và cộng hưởng từ việc đánh giá tỉ lệ gan mật, xác định hình ảnh, tính chất âm và đo kích thước các vùng tổn thương do sán gây ra trong nhu mô gan và đường mật khá điển hình.
- Có thể bạn quan tâm
- Dấu Hiệu Ngứa Da, Dị Ứng, Mề Đay Do Nhiễm Giun Đũa Chó Mèo
4493
- Triệu Chứng Giun Sán Chó Mèo
12016
- Dấu Hiệu Nào Cảnh Báo Mắt Bị Mờ Do Nhiễm Ký Sinh Trùng Giun Sán?
1063
- Điều Trị Bệnh Hôi Miệng Do Nhiễm Ký Sinh Trùng Giun Sán
962
- Các triệu chứng nhiễm giun sán cần biết
3666
- Triệu chứng nhiễm giun tóc thường gặp ở trẻ em
3127
- Các triệu chứng lâm sàng khi nhiễm Toxoplasma
2574
- Phác đồ điều trị bệnh sán chó nhanh tại phòng khám ký sinh trùng
23298
- Cách phòng bệnh giun sán cho trẻ em hiệu quả
2266
- Bệnh giun kim: Những điều cần biết về bệnh giun kim
11492